1. Chuồng trại
Chính vì vậy chuồng trại nuôi ngan cũng đơn giản hơn. Nguyên tắc chung vẫn là chuồng trại đảm bảo thoáng mát về mùa hè vá ấm áp vào mùa đông, tránh gió lùa. Nhưng làm chuồng không cần xây dựng quá cầu kỳ thì người nuôi xác định nuôi với số lượng vừa phải, nuôi trong nông hộ.
Hiện nay khi xây chuồng trại chăn nuôi, người chăn nuôi nên làm kiểu chuồng hở (chuồng thoáng), tức là chỉ xây lửng và làm lưới chắn xung quanh, kết hợp với che bạt. Loại chuồng này làm cho không khí lưu thông dễ dàng, thoáng mát vào mùa hè, khi mùa đông để cho vật nuôi được ấm áp thì đã có hệ thống bạt che chắn bên ngoài.
Khi xây dựng chuồng nuôi thì chủ yếu tính đến mái và nền.
a. Mái chuồng
Phổ biến có 2 kiểu mái (2 mái và 1 mái). Có thể sử dụng tre, gỗ, proximăng… che chắn nắng và mưa.
b. Nền chuồng
Nền chuồng nên tráng bằng xi măng, mỗi chuồng cần có hiên rộng từ 1 – 1,5 m để tránh mưa hắt, gió hắt vào.
c. Sân chơi
Sân chơi là khu vực chỉ cần thiết khi ngan nuôi nhốt và cố định ngan ở một vị trí cố định không thả tự do, đó có thể là khoảng đất trống hoặc được lát xi măng có bóng mát để làm sân chơi nuôi ngan. Sân chơi hơi dốc ra ngoài để dễ dàng thoát nước. Nếu nuôi ngan khô (tức là không cho ngan bơi lội vào chỗ uống nước thì nên bố trí máng uống nước đặt dài dọc theo sân chơi, có tấm ngăn có độ rộng vừa phải đủ để ngan thò cổ ra uống nước. Nếu sử dụng mương trong khu vực nuôi thì cần thường xuyên thay nước, tránh để ngan uống nước và thải ra mương liên tục gây ô nhiễm và dễ mắc bệnh.
2. Các điều kiện cần thiết
a. Mật độ
Đối với chuồng có sân chơi, mật độ từ 3 – 4 con/m2 là phù hợp. Nếu mật độ cao quá làm giảm năng suất đẻ trứng. Nhưng nếu mật độ thấp sẽ k hông kinh tế khi sử dụng chuồng trại.
Nếu nuôi chăn thả thì tuỳ theo điều kiện chăm sóc và khu vực chăn thả mà xác định mật độ nuôi phù hợp.
b. Nhu cầu nước uống
Nhu cầu nước uống phụ thuộc vào thời gian đẻ trứng từ 600 – 700 ml/con/ngày. Nước uống cung cấp phải là nước sạch và thường xuyên thay nước (bởi ngan, vịt nói chung rất thích sục sạo nước, nên nước nhanh chóng bị vẩn đục).
Nếu nuôi chăn thả, buổi sáng và buổi chieuè tối nên để ngan bơi ở những hố nước trong, sạch để uống, giao phối và làm sạch lông. Mùa hè phải che máng nước tránh để ngan uống nước nóng.
c. Thức ăn và chế độ ăn
Mức nhu cầu thức ăn của ngan đẻ là: đạm thô 17 – 18%, năng lượng trao đổi 2.700 kcal.
Chuyển từ thức ăn ngan hậu bị sang thức ăn ngan đẻ được tiến hành 2 tuần trước khi ngan đẻ và tăng lượng thức ăn lên 10%, khi ngan đẻ quả trứng đầu tiên tăng lượng thức ăn lên 15%. Khi đàn đẻ được 5% thì tăng dần lượng thức ăn lên sao cho 7 ngày ngan ăn tự do theo nhu cầu. Thức ăn phải đảm bảo chất lượng.
Các loại thức ăn: thóc tẻ, ngô mảnh, cá, cua, ốc… và thức ăn đậm đặc bổ sung thêm.
Đối với ngan chăn thả thì chúng có thể kiếm những thức ăn đạm (cá, cua, ốc…) từ khu vực chăn nuôi nên việc cho ăn thêm những thức ăn này không cần thiết. Chỉ cần cho ăn thêm thóc tẻ và bổ sung thêm thức ăn hỗn hợp cám đậm đặc để đảm bảo đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng.
3. Thu nhặt trứng
Ngan sẽ đẻ trứng ngay dưới nền chuồng (có rải chất độn chuồng: trấu, rơm…) vì vậy chất độn chuồng cần phải chú ý thay thường xuyên.
Thu nhặt trứng vào mỗi buổi sáng khi dồn hết ngan ra khỏi chuồng, các trứng bẩn phải rửa sạch, tốt nhất là rửa bằng chất sát trùng Focmalin để đảm bảo trứng giống có chất lượng. Sau đó, trứng được đem đi bảo quản ở chỗ thoáng mát, có điều kiện thì bảo quản ở phòng lạnh (bảo đảm bảo quản được thời gian lâu hơn điều kiện bình thường).
4. Phòng bệnh
Thường xuyên vệ sinh chuồng trại.
Nên nuôi cùng một loại ngan (ngan cùng lứa tuổi), nếu là khác đàn chải nên chênh lệch nhau 2 – 5 ngày tuổi, đảm bảo độ đồng đều trong đàn.
Hàng năm phải có thời gian để trống chuồng để khử trùng toàn bộ khu vực nuôi, sau mỗi đợt nuôi.
Ngày tuổi |
Thuốc và cách dùng |
1 - 3 ngày |
Dùng thuốc phòng chống nhiễm trùng rốn, các bệnh đường ruột và ảnh hưởng tác nhân stress:
- Strep Tomyxin: 40 mg/con
- Neo Tesol, Tetracylin: 60 mg/trọng lượng.
- Bổ sung Vitamin thay dầu cá |
15 - 20 ngày |
Tiêm phòng vắc xin |
18 - 21 ngày |
Bổ sung vitamin và kháng sinh như: Neotryxin, Tracylin, Triquin để phòng tụ huyết trùng và phó thương hàn. |
40 - 56 ngày |
Tiêm phòng vắc xin dịch tả lần 2 |
70 - 120 ngày |
Bổ sung vitamin và kháng sinh
Chú ý sự biến động về thời tiết, sức khoẻ của đàn ngan để bổ sung kháng sinh phòng bệnh cho ngan 1 – 2 tháng một lần nhưng phải thay đổi loại thuốc dùng. |
180 - 190 ngày |
Tiêm vắc xin phòng dịch tả lần 3, bổ sung kháng sinh và vitamin. Sau khi ngan đẻ 4 – 5 tháng tiêm vắc xin dịch tả lần 4 và bổ sung kháng sinh để phòng các bệnh vi trùng 1 – 2 lần trong 1 tháng. |
Tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin cho ngan để phòng bệnh
Những điều cần lưu ý
Ngan là con vật đặc biệt mẫn cảm với một số thuốc (Dimetridazole, Furoxone, Arsenic). Tuy nhiên việc sử dụng liều thuốc quá cao có thể là nguồn gốc gây nên trúng độc.
Ngan hấp thụ nhiều thức ăn nên khi sử dụng thuốc trộn vào thức ăn hoặc nước uống thì nên chú ý giảm tỷ lệ thuốc trộn/ kg thức ăn để tránh lượng thuốc đi vào cơ thể quá nhiều gây nên trúng độc.
Khi tiêm phòng cho từng cá thể thì liều sử dụng đối với ngan bao giờ cũng phải thấp hơn các loại gia cầm khác, và phải tính đúng với trọng lượng của ngan, cũng cần lưu ý rằng ngan cái nhẹ hơn ngan đực.
Nhằm mục đích phòng bệnh chongna, tốt nhất nên dùng các loại vitamin B, thuốc bảo vệ gan.
Những khuyết tật về mọc lông, rụng lông có liên quan trực tiếp đến sức khoẻ của ngan. Có thể có nhiều nguyên nhân ghép: do virus, thiếu dinh dưỡng, stress… Và không nên nhầm các bệnh trên với hiện tượng rỉa cắn nhau, hay thời kỳ thay lông sau mỗi chu kỳ đẻ của ngan.